Menandros I Soter (
tiếng Hy Lạp cổ: Μένανδρος Α΄ ὁ Σωτήρ; Ménandros A' ho Sōtḗr, "Menandros I Vua cứu độ"; còn được biết đến là
Milinda trong
tiếng Pali Ấn Độ, có thể được dịch ra tiếng Việt là
Mi Lan Đà hay
Di Lan Đà) là là vua của
vương quốc Ấn-Hy Lạp, trị vì từ khoảng năm 165/
[2] 155
[2] trước Công nguyên đến năm 130 trước Công nguyên. Ông là người đã thiết lập nên một đế chế lớn ở
Nam Á và là một người hộ pháp của
Phật giáo.Menandros sinh ra ở vùng
Alexandria Caucasia (
Hindu Kush), và ban đầu làm vua xứ
Bactria (Đại Hạ). Sau khi chinh phục miền
Punjab (nay thuộc vùng biên giới Ấn Độ-
Pakistan)
[3], ông đã thiết lập nên một đế chế ở
tiểu lục địa Ấn Độ kéo dài từ thung lũng
sông ở phía tây đến
sông Ravi ở phía đông, và từ thung lũng
sông Swat ở miền bắc đến
Arachosia (tỉnh
Helmand) phía nam. Các sử gia Ấn Độ cổ cho biết rằng, ông đã từng phát động những cuộc viễn chinh về phía nam tới vùng
Rajasthan và những vùng xa về phía đông ở thung lũng
sông Hằng như thành
Pataliputra (
Patna). Nhà địa lý người Hy Lạp
Strabo viết rằng ông "chinh phục nhiều bộ lạc hơn
Alexandros Đại đế." (mặc dù đây có thể chỉ là những bộ lạc nhỏ, và ông đã không xâm chiếm nhiều đất đai)Số lượng lớn các đồng tiền của Menandros đã được khai quật, chứng nhận cho một giai đoạn hưng thịnh của vương quốc. Menandros cũng là một người bảo trợ của Phật giáo, và cuộc đối thoại của ông với
tỳ-kheo Na Tiên được ghi nhận là một trong những tác phẩm Phật giáo quan trọng, bộ
Milinda Panha ("Di Lan Đà vấn đạo"). Sau khi ông qua đời năm 130 TCN, ông đã được kế vị bởi vương hậu
Agathokleia trên cương vị nhiếp chính cho con trai là
Strato I. Truyền thống Phật giáo thuật lại rằng ông bàn giao lại vương quốc của mình cho con trai và lui về sống ẩn dật, tuy nhiên sử gia
Plutarchus cho rằng ông đã chết trong doanh trại khi đang tiến hành một chiến dịch quân sự, và hài cốt của ông được chia đều cho các thành phố và được cất giữ trong các lăng mộ, rất có thể là những
phù đồ, trên vương quốc của ông.